Định Ấn (DHYANA MUDRA / SAMADHI MUDRA)
Ở entry trước, trong comment của ông bạn Bulukhin có nhắc đến từ "Khế ấn", một từ ngữ Phật giáo có lẽ hơi khó hiểu ngay cả với nhiều Phật tử. Để tiện cho chính bản thân và các bạn nào muốn tìm hiểu đôi chút về Phật giáo, tôi thử sắp xếp viết ra đây về từ "Khế ấn" theo như cách hiểu biết lâu nay của mình.
Trước hết là về từ "Khế", thỉnh thoảng chúng ta có thể bắt gặp nơi sách vở viết về Phật giáo những từ ngữ như "Khế lý, Khế cơ". "Khế" có nghĩa là phù hợp, "Khế lý" là phù hợp với nguyên lý, chân lý. Khế cơ là phù hợp với khả năng, trình độ, hoàn cảnh (cơ) của mỗi người. Từ "Ấn", hay "Thủ ấn", là những tư thế của hai bàn tay và những ngón tay được nhìn thấy trong điêu khắc và hội họa Phật giáo ở khắp nơi trên thế giới, như Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Tạng, Nhật Bản, Đại Hàn, Lào, Thái Lan, Cambodia, Myanmar, hay Việt Nam... Thủ ấn, là những cử chỉ hay những tư thế tượng trưng cho những huyền lực hoặc những biểu thị có tính cách linh thiêng, được thực hành bởi những bậc Đạo sư trong những lúc trì giới hay nghi lễ. Những Thủ ấn được tin là có khả năng tạo ra huyền lực và kêu cầu thần linh. Như vậy, "Khế ấn" là một Thủ ấn phù hợp với hoàn cảnh mà một Đạo sư đang sư đang thực hiện trong trì giới hay nghi lễ. Trong Phật giáo, nhất là Phật giáo Đại thừa, có rất nhiều Thủ ấn được ghi nhận, chẳng hạn 31 thủ ấn của các Đại Phật, 57 thủ ấn của các Thượng đẳng thần, 45 thủ ấn dành cho các vị thần khác. Ở đây tôi chỉ đưa ra một số Thủ ấn chúng ta thường hay nhìn thấy nơi những tranh, tượng Phật giáo của những Đại Phật tại các chùa chiền, hay sách vở...
Một trong những Thủ ấn chúng ta hay bắt gặp nhất đó là Định ấn (Thiền định ấn) - DHYANA MUDRA / SAMADHI MUDRA (Tiếng Nhật Jo - in, Jokai Jo - in, tiếng Hoa Ding Yin) ở nơi tấm hình phía trên. Đây là Thủ ấn khi Thiền định, tập trung tư tưởng về Thiện Pháp, đạt đến Giác ngộ tâm linh. Hai bàn tay của Đạo sư thường đặt trong lòng xếp chồng lên nhau, lòng bàn tay hướng lên trên. Thủ ấn này chúng ta thường hay bắt gặp nơi tranh, tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà...
Xúc Địa Ấn (BHUMISPARSA)
Thủ ấn chúng ta cũng hay nhìn thấy như trên bức hình thứ 2 tôi chụp bức tượng Phật vàng bằng vàng thật nặng 5,5 tấn tại chùa Vàng (Bangkok - Thái Lan). Thủ ấn nơi bàn tay phải được gọi là Xúc địa ấn - BHUMISPARSA ( tiếng Nhật Goma - in Anzan - in, Anchi - in, Sokuchi - in, tiếng Hoa Chudi Yin), nghĩa đen của Thủ ấn này là "chạm vào đất", diễn tả lại thời điểm Đức Phật Thiền định dưới gốc cây Bồ đề trước khi đạt được Giác ngộ, Phật đã lấy đất làm chứng, đây là biểu tượng của lòng kiên tín, quyết tâm, không gì lay chuyển nổi. Thủ ấn này là điển hình cho Đức Phật Cồ Đàm, nhưng cũng tượng trung cho Đức Phật A Di Đà, cũng có những kinh văn nói về truyền thuyết Phật đã dùng Xúc địa ấn, để yêu cầu Thần đất gởi đạo binh chống lại Ma vương, khi Ma vương đến quấy rối ngăn cản việc Giác ngộ của Đức Phật.
Vô Úy Ấn (ABHAYA) - Giáo Hóa Ấn (VITARKA)
Một Thủ ấn khác kết hợp giữa hai tay của Đức Phật ở nơi tấm hình thứ 3 bên trên với bàn tay phải được đưa lên ngang vai, lòng bàn tay hướng ra phía trước, Thủ ấn này được gọi là Vô úy ấn - ABHAYA (tiếng Nhật Semui - in, tiếng Hoa Shiwuwei Yin), tượng trưng cho sự che chở, độ lượng và khoan hòa, xua tan sợ hãi, có vẻ như là một tư thế tự nhiên, có lẽ từ thời xa xưa đã được dùng như một dấu hiệu thiện chí, với bàn tay phải đưa lên, không vũ trang, kêu gọi hòa bình và tình hữu nghị. Bàn tay trái của Đức Phật được đặt trên đùi với lòng bàn tay ngửa lên trời, những ngón tay duỗi thẳng hoặc có khi đầu ngón cái chạm vào đầu ngón trỏ (nơi bàn tay phải đưa lên cũng thế), được gọi là Giáo hóa ấn - VITAKA (tiếng Nhật Seppo - in, An - i- in, tiếng Hoa Anwei Yin). Thủ ấn này biểu thị cho các Đại Phật trong những giai đoạn giảng pháp, luận pháp, thuyết phục người nghe.
Chuyển Pháp Luân Ấn (DHARMACAKRA)
Thủ ấn nơi tấm hình thứ 5 bên trên được gọi là Chuyển pháp luân ấn - DHARMACAKRA (tiếng Nhật Tenborin - in, Chikichi - jo, Hoshin - seppo - in, tiếng Hoa Juanfalun Yin). Thủ ấn thường được biểu thị với bàn tay đưa lên để trước ngực (một bàn tay hoặc cả hai bàn tay), lòng bàn tay hướng ra phía trước, đầu ngón cái chạm vào đầu ngón tay áp út, đây là tư thế "Chuyển pháp luân". Thủ ấn này được thực hiện bởi Đức Phật Thích Ca trong một thời điểm rất quan trọng sau khi Giác ngộ, giảng pháp lần đầu tiên cho 5 người bạn đồng tu trước đây (nhóm Kiều Trần Như), nơi vườn Lộc Uyển ở Sarnath. Vì vậy thủ ấn Chuyển pháp luân thường được dành riêng cho Phật Thích Ca.
Chỉ Quán Ấn (CHIKEN - IN)
Một Thủ ấn điển hình nơi tượng Phật tại Nhật Bản và Triều Tiên như trên bức hình thứ 6, nhưng không thường thấy tại Trung Hoa hay Việt Nam, đó là Chỉ quán ấn - CHIKEN - IN (tiếng Nhật Kakusho - in, Daichi - in, tiếng Hoa Zhiquan Yin). Thủ ấn được tạo ra bằng bàn tay phải đưa lên ngang ngực nắm lấy ngón tay trỏ dựng thẳng của bàn tay trái như trong hình, thủ ấn này nhấn mạnh tầm quan trọng của Trí tuệ trong thế giới tâm linh, năm ngón tay phải biểu thị Ngũ hành, bảo vệ hành thứ sáu là người (ngón trỏ tay trái). Một cách giải thích khác là ngón trỏ dựng đứng biểu thị cho Trí tuệ, bị che lấp bởi hình danh sắc tướng (nắm tay phải).
Ở Tây Tạng, Chỉ quán ấn biểu thị cho sự hòa hợp hoàn hảo, là hình thức tương đương hình ảnh tính dục Linga và Yoni trong Bà La Môn...
Theo Tranh Tượng & Thần Phổ Phật giáo, Louis Frédéric, Phan Quang Định dịch, NXB Mỹ Thuật xuất bản năm 2005.
--> Read more..
Ở entry trước, trong comment của ông bạn Bulukhin có nhắc đến từ "Khế ấn", một từ ngữ Phật giáo có lẽ hơi khó hiểu ngay cả với nhiều Phật tử. Để tiện cho chính bản thân và các bạn nào muốn tìm hiểu đôi chút về Phật giáo, tôi thử sắp xếp viết ra đây về từ "Khế ấn" theo như cách hiểu biết lâu nay của mình.
Trước hết là về từ "Khế", thỉnh thoảng chúng ta có thể bắt gặp nơi sách vở viết về Phật giáo những từ ngữ như "Khế lý, Khế cơ". "Khế" có nghĩa là phù hợp, "Khế lý" là phù hợp với nguyên lý, chân lý. Khế cơ là phù hợp với khả năng, trình độ, hoàn cảnh (cơ) của mỗi người. Từ "Ấn", hay "Thủ ấn", là những tư thế của hai bàn tay và những ngón tay được nhìn thấy trong điêu khắc và hội họa Phật giáo ở khắp nơi trên thế giới, như Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Tạng, Nhật Bản, Đại Hàn, Lào, Thái Lan, Cambodia, Myanmar, hay Việt Nam... Thủ ấn, là những cử chỉ hay những tư thế tượng trưng cho những huyền lực hoặc những biểu thị có tính cách linh thiêng, được thực hành bởi những bậc Đạo sư trong những lúc trì giới hay nghi lễ. Những Thủ ấn được tin là có khả năng tạo ra huyền lực và kêu cầu thần linh. Như vậy, "Khế ấn" là một Thủ ấn phù hợp với hoàn cảnh mà một Đạo sư đang sư đang thực hiện trong trì giới hay nghi lễ. Trong Phật giáo, nhất là Phật giáo Đại thừa, có rất nhiều Thủ ấn được ghi nhận, chẳng hạn 31 thủ ấn của các Đại Phật, 57 thủ ấn của các Thượng đẳng thần, 45 thủ ấn dành cho các vị thần khác. Ở đây tôi chỉ đưa ra một số Thủ ấn chúng ta thường hay nhìn thấy nơi những tranh, tượng Phật giáo của những Đại Phật tại các chùa chiền, hay sách vở...
Một trong những Thủ ấn chúng ta hay bắt gặp nhất đó là Định ấn (Thiền định ấn) - DHYANA MUDRA / SAMADHI MUDRA (Tiếng Nhật Jo - in, Jokai Jo - in, tiếng Hoa Ding Yin) ở nơi tấm hình phía trên. Đây là Thủ ấn khi Thiền định, tập trung tư tưởng về Thiện Pháp, đạt đến Giác ngộ tâm linh. Hai bàn tay của Đạo sư thường đặt trong lòng xếp chồng lên nhau, lòng bàn tay hướng lên trên. Thủ ấn này chúng ta thường hay bắt gặp nơi tranh, tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà...
Xúc Địa Ấn (BHUMISPARSA)
Thủ ấn chúng ta cũng hay nhìn thấy như trên bức hình thứ 2 tôi chụp bức tượng Phật vàng bằng vàng thật nặng 5,5 tấn tại chùa Vàng (Bangkok - Thái Lan). Thủ ấn nơi bàn tay phải được gọi là Xúc địa ấn - BHUMISPARSA ( tiếng Nhật Goma - in Anzan - in, Anchi - in, Sokuchi - in, tiếng Hoa Chudi Yin), nghĩa đen của Thủ ấn này là "chạm vào đất", diễn tả lại thời điểm Đức Phật Thiền định dưới gốc cây Bồ đề trước khi đạt được Giác ngộ, Phật đã lấy đất làm chứng, đây là biểu tượng của lòng kiên tín, quyết tâm, không gì lay chuyển nổi. Thủ ấn này là điển hình cho Đức Phật Cồ Đàm, nhưng cũng tượng trung cho Đức Phật A Di Đà, cũng có những kinh văn nói về truyền thuyết Phật đã dùng Xúc địa ấn, để yêu cầu Thần đất gởi đạo binh chống lại Ma vương, khi Ma vương đến quấy rối ngăn cản việc Giác ngộ của Đức Phật.
Vô Úy Ấn (ABHAYA) - Giáo Hóa Ấn (VITARKA)
Một Thủ ấn khác kết hợp giữa hai tay của Đức Phật ở nơi tấm hình thứ 3 bên trên với bàn tay phải được đưa lên ngang vai, lòng bàn tay hướng ra phía trước, Thủ ấn này được gọi là Vô úy ấn - ABHAYA (tiếng Nhật Semui - in, tiếng Hoa Shiwuwei Yin), tượng trưng cho sự che chở, độ lượng và khoan hòa, xua tan sợ hãi, có vẻ như là một tư thế tự nhiên, có lẽ từ thời xa xưa đã được dùng như một dấu hiệu thiện chí, với bàn tay phải đưa lên, không vũ trang, kêu gọi hòa bình và tình hữu nghị. Bàn tay trái của Đức Phật được đặt trên đùi với lòng bàn tay ngửa lên trời, những ngón tay duỗi thẳng hoặc có khi đầu ngón cái chạm vào đầu ngón trỏ (nơi bàn tay phải đưa lên cũng thế), được gọi là Giáo hóa ấn - VITAKA (tiếng Nhật Seppo - in, An - i- in, tiếng Hoa Anwei Yin). Thủ ấn này biểu thị cho các Đại Phật trong những giai đoạn giảng pháp, luận pháp, thuyết phục người nghe.
Chuyển Pháp Luân Ấn (DHARMACAKRA)
Thủ ấn nơi tấm hình thứ 5 bên trên được gọi là Chuyển pháp luân ấn - DHARMACAKRA (tiếng Nhật Tenborin - in, Chikichi - jo, Hoshin - seppo - in, tiếng Hoa Juanfalun Yin). Thủ ấn thường được biểu thị với bàn tay đưa lên để trước ngực (một bàn tay hoặc cả hai bàn tay), lòng bàn tay hướng ra phía trước, đầu ngón cái chạm vào đầu ngón tay áp út, đây là tư thế "Chuyển pháp luân". Thủ ấn này được thực hiện bởi Đức Phật Thích Ca trong một thời điểm rất quan trọng sau khi Giác ngộ, giảng pháp lần đầu tiên cho 5 người bạn đồng tu trước đây (nhóm Kiều Trần Như), nơi vườn Lộc Uyển ở Sarnath. Vì vậy thủ ấn Chuyển pháp luân thường được dành riêng cho Phật Thích Ca.
Chỉ Quán Ấn (CHIKEN - IN)
Một Thủ ấn điển hình nơi tượng Phật tại Nhật Bản và Triều Tiên như trên bức hình thứ 6, nhưng không thường thấy tại Trung Hoa hay Việt Nam, đó là Chỉ quán ấn - CHIKEN - IN (tiếng Nhật Kakusho - in, Daichi - in, tiếng Hoa Zhiquan Yin). Thủ ấn được tạo ra bằng bàn tay phải đưa lên ngang ngực nắm lấy ngón tay trỏ dựng thẳng của bàn tay trái như trong hình, thủ ấn này nhấn mạnh tầm quan trọng của Trí tuệ trong thế giới tâm linh, năm ngón tay phải biểu thị Ngũ hành, bảo vệ hành thứ sáu là người (ngón trỏ tay trái). Một cách giải thích khác là ngón trỏ dựng đứng biểu thị cho Trí tuệ, bị che lấp bởi hình danh sắc tướng (nắm tay phải).
Ở Tây Tạng, Chỉ quán ấn biểu thị cho sự hòa hợp hoàn hảo, là hình thức tương đương hình ảnh tính dục Linga và Yoni trong Bà La Môn...
Theo Tranh Tượng & Thần Phổ Phật giáo, Louis Frédéric, Phan Quang Định dịch, NXB Mỹ Thuật xuất bản năm 2005.