PNH


Vãn giác văn chương chân tiểu kỹ... Tô Đông Pha.




Một góc nhìn...


Photobucket
Photobucket

Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012

Từ Tất Đạt Đa (Siddharta) đến Bu Đa (Buddha).

Ảnh lấy trên Internet.

"Từ Tất Đạt Đa (Siddharta) đến Bu Đa (Buddha)", cái tựa nghe có vẻ "ghê gớm" quá, thực sự có biết bao nhiêu điều để nói chỉ nội trong mấy từ ghi trên, và chắc chắn điều đó nằm ngoài khả năng hiểu biết và "viết lách" của bản thân tôi. Cuối tuần, ngoài hai ngày nghỉ bình thường, được nghỉ... giỗ (giỗ Tổ) thêm một ngày, viết đôi ba câu theo cách suy nghĩ đơn giản, gọi là để vui cùng bạn bè...
Tất Đạt Đa hay còn gọi là Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddharta Gautama), Thích Ca Mâu Ni, là một hoàng tử của vương quốc Ca Tì La Vệ (một nước nhỏ xưa thuộc Ấn Độ, nay thuộc xứ Nepal), cha của ngài là quốc vương Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Ma Gia (sinh được 7 ngày thì hoàng hậu mất). Theo ghi chép của sử liệu Phật giáo Trung Hoa, Tất Đạt Đa đản sinh năm 565 trước công nguyên, ngài tạ thế năm 486 TCN, vị chi ngài sống được 80 tuổi cũng có sách chép ngài thọ 86 tuổi, khi năm bảy chục năm trước người ta còn nói "Thất thập cổ lai hy", 70 tuổi xưa nay hiếm thì ở vào thời của ngài cách nay trên hai ngàn năm, ngài sống đến 80 hoặc ngoài 80 phải nói là rất hiếm. Truyền thuyết khi ngài mới sinh ra có rất nhiều sách vở, kinh sách nói đến, chẳng hạn lúc ra đời ngài phóng đại trí quang minh soi khắp mười phương thế giới, có hoa sen vàng từ dưới đất nổi lên hứng hai chân. Một tay chỉ trời một tay chỉ đất, ngài đi vòng quanh bảy bước mắt nhìn bốn phương nói "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn", đại khái là trên trời dưới đất chỉ có mình ta... Đấy là truyền thuyết chép trong sách vở lúc Tất Đạt Đa mới sinh...
Là con vua, lại được vua cha chọn làm Thái tử để truyền ngôi nên Tất Đạt Đa được dạy dỗ cẩn thận, kinh điển Bà La Môn ngài thuộc làu làu (lúc này thì chắc chắn chưa có... Phật giáo), ngài cũng được luyện tập võ nghệ cỡi ngựa bắn cung... nghĩa là chẳng bao lâu ngài đã trở thành một con người tài giỏi văn võ song toàn, thông minh đĩnh ngộ. Khi trưởng thành ngài được vua cha hỏi cưới công chúa nước láng giềng con vua Thiện Giác tên Gia Du Đà La, sinh được một người con trai tên La Hầu La. Những tưởng cuộc đời của thái tử Tất Đạt Đa sẽ êm đẹp nơi cung điện như thế, nhưng khi trưởng thành những gì ngài nhìn thấy trong cuộc sống bất an và đầy xáo trộn của xã hội lúc bấy giờ làm ngài nghi hoặc, những con người nghèo khổ cùng cực, những phiền muộn của sinh, lão, bệnh, tử... nơi những con người trong khắp kinh thành của vua cha dấy lên trong ngài những suy tư về một kiếp người... Và đến năm hai mươi chín tuổi ngài quyết định xuất gia tu hành, để mong tìm được con đường giải thoát cho những đau khổ và phiền não của thâm tâm.
Trong một đêm khuya với một con ngựa trắng thái tử Tất Đạt Đa lặng lẽ rời khỏi kinh thành. Nơi chốn rừng sâu thoạt tiên ngài cởi bỏ bộ quần áo thường mặc nơi cung điện, thay vào bộ trang phục đơn sơ của kẻ tu hành, cạo sạch râu tóc chứng tỏ sự quyết tâm tu hành, vua Tịnh Phạn khi biết ngài đã quyết ra đi, đành phải chọn một người trong hoàng tộc tên Trần Kiều Như và năm thanh niên đi theo làm tuỳ tùng cho ngài. Trong sáu năm Tất Đạt Đa theo học với những bậc trí giả Bà La Môn, những nhà tư tưởng lừng lẫy, sống cuộc sống khổ hạnh nơi rừng sâu, thân xác kiệt quệ... nhưng rồi ngài vẫn không sao tìm được con đường giải thoát tinh thần mà ngài hằng mong muốn... Khổ hạnh chỉ là vô ích, và ngài đã rời khỏi khu rừng khổ hạnh.
Tất Đạt Đa xuống dòng sông Ni - Liên - Thiền tắm gội sạch sẽ, và tiếp nhận một bát sữa bò do một cô mục đồng dâng cúng, dần dần ngài khôi phục thể lực. Lúc này những người trong hoàng tộc cùng đi theo ngài tu hành thấy ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh, lại uống sữa bò do một người con gái dâng, cho rằng ngài đã mất niềm tin, họ rời bỏ ngài trong thất vọng. Còn lại một mình Tất Đạt Đa đến dưới gốc cây Bồ đề bên bờ sông Ni - Liên - Thiền, hướng về phương Đông, trải chiếu cỏ và thề "Ta nay nếu không chứng được vô thượng đại giác thì dù có thịt nát xương tan, cũng không rời khỏi nơi này". Trải qua bảy ngày đêm trầm tư trong thiền định, ngài đã chiến thắng được phiền não, vào thời khắc của một buổi rạng sáng ngài hoát nhiên đại ngộ, thấu tỏ được cội nguồn của khổ não đời người, và đạt được niềm an lạc, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi. Vào giờ khắc ấy Tất Đạt Đa đã trở thành Bu Đa, tức Đức Phật, kẻ Giác Ngộ...
Việc ngài quyết định ngồi thiền định trầm tư bảy ngày đêm và đắc đạo dưới gốc cây Bồ đề, cũng có kinh sách chép rằng, khi ấy Thiên đế đem cỏ Tường Thoại trải toà cho ngài ngồi, thiên ma sợ ngài thành đạo nên kéo đến quấy rối, hiện thành nữ nhân lôi kéo, nhưng ngài vẫn an nhiên tự tại, và ngài đã đạt đạo... Sau khi trở thành Phật (Buddha, kẻ Giác ngộ), Đức Phật đã đi thuyết giảng thêm 45 năm, cũng có sách chép 49 năm để cứu độ chúng sinh, tư tưởng của ngài đã được các đệ tử, những người theo ngài về sau, đúc kết viết lại thành rất nhiều bộ kinh sách đồ sộ, còn lưu truyền lại cho đến ngày nay, và là tiền đề để một tôn giáo lớn là Phật giáo ra đời...
Trước khi nhập diệt ngài đã nói trước những người đi theo ngài "Từ trước đến nay ta chưa hề thuyết giảng điều gì". Một câu nói có vẻ kỳ lạ, có thể mang tính ẩn dụ, một công án của Phật giáo về sau, hay đấy đơn giản chỉ là một sự thật mà ở vào giờ phút cuối cùng ngài mới nói...
Có lẽ tôi không bàn nhiều về những gì kinh sách đã chép, hoặc vô vàn những truyền thuyết quanh cuộc đời của Đức Phật, 72 phép thần thông biến hoá, chốn niết bàn hoan lạc hoặc chốn địa ngục trừng phạt, hay luân hồi... tin hay không là tuỳ thuộc ở suy nghĩ của mỗi người. Đối với câu chuyện thái tử Tất Đạt Đa trở thành Đức Phật nêu trên tôi có chút suy nghĩ: Tất cả những gì quan trọng nhất đểTất Đạt Đa đạt được Giác ngộ, thoát khỏi phiền não và luân hồi, An lạc tâm thần, không phải nằm trong những truyền thuyết, kinh sách... hoặc chỉ trong 7 ngày đêm trầm tư thiền định, đó là kết quả từ quãng thời gian khi ngài trưởng thành, nhìn thấy, suy nghĩ và luôn bị dằn vặt về nỗi khổ của con người, cộng thêm 6 năm khổ hạnh sống đời sống của một sa môn Bà La Môn nơi rừng thẳm. Cuối cùng là bát sữa bò cúng dường của cô gái mục đồng đã đem lại sức lực, sự minh mẫn, và 7 ngày đêm trầm tư, đã như tiếng chuông thức tỉnh để Tất Đạt Đa nhìn và thấu hiểu được chính Con Người của mình... Trước khi ngài trở thành Phật thế giới quanh ngài đầy đau khổ, sau khi ngài đạt đạo những đau khổ ấy không hề thay đổi, nhưng điều quan trọng nhất, tâm thức, cái nhìn của ngài về thế giới, về con người, về chính bản thân mình đã thay đổi. Và thái tửTất Đạt Đa đã trở thành Bu Đa, Đức Phật, kẻ Giác ngộ...



21 nhận xét:

  1. cảm ơn anh H, đúng là tâm thức thay đổi mới là điều quan trọng :)

    Trả lờiXóa
  2. Có lẽ chỗ này nên sửa là "đấng Giác ngộ" để tỏ lòng tôn kính thì hay hơn là dùng từ "kẻ" đó anh H ơi!

    Trả lờiXóa
  3. Đức Phật nói "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành", chính là điều mà anh H vừa nói!

    Sự đau khổ của loài người không hề thay đổi thậm chí còn kinh khủng hơn ở thiên niên kỷ này, chính là vì chúng ta chưa giác ngộ, còn chìm đắm trong thất tình lục dục, cái dục vọng của con người lôi kéo ta đi vào luân hồi gây khổ đau cho tâm thức ta và cho những người liên quan.

    Chúng ta vẫn đau khổ vì chúng ta vẫn là những chúng sanh chưa thành Phật!

    Trả lờiXóa
  4. Khi nào cool mới giác ngộ được đây...
    Thở dài...

    Trả lờiXóa
  5. @htkt, hìhì, đôi khi điều đơn giản như thế lại khiến ta không chú ý, người ta thích đi tìm những cao siêu nơi thần phép, kinh sách hơn... :-)))

    Trả lờiXóa
  6. @huynhtran, dùng từ "đấng" thay cho "kẻ"? Chị M. có lý. tuy nhiên trong trường hợp này tôi thích dùng từ "kẻ" hơn. "Kẻ", một từ xưa (chữ Nôm) có nghĩa là người (chữ nhân bên trái chỉ nghĩa, cạnh chữ kỷ chỉ âm), "Kẻ chợ", người ở chốn thành thị, kẻ giác ngộ, người giác ngộ (chỉ chung những ai đã giác ngộ). :-)

    Trả lờiXóa
  7. @huynhtran, "Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành", tôi tin câu nói này là của Đức Phật. Bây giờ Phật giáo đi theo con đường của "Xin - Cho", tín đồ cầu khẩn nơi Phật mọi thứ, và tin vào những phép lạ. Nếu ta nhìn kỹ hơn một chút về những gì đã xảy ra nơi Tất Đạt Đa, cho đến khi trở thành Phật, thì hoàn toàn do ngài "tự thân vận động" chứ không phải bằng phép thần thông hay do cầu xin. Bằng thiền quán, bằng trầm tư... cuối cùng ngài đạt được giải thoát hoàn toàn, kinh sách nói ngài thoát khỏi Sinh - Tử, thoát khỏi Luân hồi... tôi hiểu là "tâm thức, tâm tưởng" của ngài đã không còn bị sinh tử, luân hồi mê hoặc, như ngài đã từng bị mê hoặc, chứ không phải là ngài không còn sinh tử (Đức Phật vẫn chết đó thôi)... tất cả là ở đó, và khi ngài, một con người như tất cả mọi con người khác đã đạt được giác ngộ, thì ngài biết rằng, chúng sinh cũng sẽ đạt được giác ngộ...

    Trả lờiXóa
  8. @thaiphuc, "Khi nào Cool mới giác ngộ"?, khi nào tôi mới giác ngộ? Cũng giống như Đức Phật (không phải ta cũng đi theo con đường Phật đã đi đâu), nghĩa là phải chính Cool, hay chính tôi "chịu" đi tìm, bằng chính con người và chính con đường của mình, hìhì!

    Trả lờiXóa
  9. @thaiphuc, nhưng than ôi, Chúa nói "Tìm sẽ thấy", nhưng Phật thì "Tìm sẽ không bao giờ gặp", và qua câu chuyện trên, có phải Tất Đạt Đa đạt được giác ngộ, sau khi ngừng tìm kiếm giác ngộ sau bao nhiêu năm, và bao nhiêu khổ hạnh???

    Trả lờiXóa
  10. Khổ nỗi mình thì lại chẳng chú ý gì cả , từ "điều đơn giản" cho tới "điều cao siêu ,thần phép , kinh sách " . Kiểu này chắc sẽ không bao giờ giác ngộ ha bác H ? (-:

    Trả lờiXóa
  11. Khổ nỗi mình thì lại chẳng chú ý gì cả , từ "điều đơn giản" cho tới "điều cao siêu ,thần phép , kinh sách " . Kiểu này chắc sẽ không bao giờ giác ngộ ha bác H ? (-:

    Trả lờiXóa
  12. @bangtamngt, Trời, Marg. là quá hay, không hề chú ý đến, tức là bạn không bị những điều ấy chi phối, tâm bạn đã an, tôi chỉ mong được như thế :-)))

    Trả lờiXóa
  13. Ủa , vậy hả bác ? Nhưng mình cứ là mình đi chớ , đừng mong cái của người khác chớ , hé hé ...

    Trả lờiXóa
  14. @bangtamngt, hehe, tôi mong cái tâm đảo điên của mình được an, chứ... đâu có dám mong cái tâm đã an của Marg. Hichic!

    Trả lờiXóa
  15. Giữ được tâm mình an mới là điều quang trọng anh nhỉ. Trong thế giới này nhiều thuyết quá nhiều khi làm con người ta bấn loạn. Thuyết này dạy con người ta an tâm, nơi khuyến khích con người ta ko bằng lòng với những gì đã có, chỗ bảo "dừng lại là kéo xã hội giật lùi", thuyết bảo:"Hạnh phúc là đấu tranh"... Vậy thì giữ cho tâm an mới mong có cuộc sống yên lành.
    Học được chút gì đó từ tinh thần Đức Phật để cuộc sống bình yên và tâm tịnh hơn cũng là quý lắm rồi ạ. Họ có niệm là Nam Mô A Di Đà Phật ko anh?
    Nam Mô A Di Đà Phật!

    Trả lờiXóa
  16. @muathuvang, giữ được tâm an là điều rất quan trọng trong cuộc sống quá nhiều bất an này phải không V.A. Ở nơi loài vật thì chỉ có một chân lý, là "mạnh được yếu thua", còn nơi con người thì như V.A. đã biết rõ, nói sao cũng được.
    Niệm Nam Mô A Di Đà Phật theo như Phật giáo, hay Lỗi tại tôi mọi đàng theo như TCG tôi nghĩ đều tốt cả, câu nói gì không quan trọng, quan trọng là ta ý thức được câu nói của ta là mong cầu điều tốt, có lẽ thế phải không V.A.?

    Trả lờiXóa
  17. Bài giảng đầu tiên sau khi thành đạo của Thích ca là tứ diệu đế Khổ Tập Diệt Đạo...
    Cuộc đời nhiễu nhương, bi hài, đau khổ vân xnhuw thế, nhưng quan trọng là ta nhìn nhận nó như thế nào để an nhiên, bình tĩnh thôi. Phải vậy không bác?!

    Trả lờiXóa
  18. @torovn, lắm khi như muathuvang viết bên trên ấy Toro. Muốn tôn Khổng Tử thành Thánh nhân thì đúng như thế, nhưng khi đốt sách vở chôn học trò như Tần Thuỷ Hoàng thì cũng đủ lý do. Lắm khi tự hỏi nếu thế giới không có Khổng Tử, Lão Tử, Phật, Chúa, Mác... thì chắc cũng sẽ có những người khác, và thế giới cũng sẽ thế, cho nên tuỳ theo cái nhìn của ta thôi... :-)

    Trả lờiXóa
  19. 1- Hiện nay có lẽ duy nhất có thầy Nhất Hạnh gọi đạo Phật là đạo Bụt. Hẳn là thầy diễn giải từ Bu Đa (Buddha).
    2- Nhiều sách vở nói về hoàng tử Tất Đạt Đa trở thành Phật. Nhưng đa số thần thoại hóa một con người như mọi người. Bu tui cho rằng có lẽ cuốn Đức Phật Lịch sử của H.W. SCHUMANNN (Đức) do Trần Phương Lan dịch là gần gũi với con người thực của ông. Chẳng hạn sau khi từ giả tu khổ hạnh ông sắp chết đến nơi, may nhờ ăn bát cháo sữa nấu với bột gạo mà sống lại và ngồi thiền 49 ngày đêm dười gốc cây bồ đề để giác ngộ. Ông qua đời do ngộ độc thức ăn (nấm độc) do bữa tiệc chay của một người thợ rèn Kun da ngưỡng mộ ông khoản đãi. Lễ trà tỳ (hỏa thiêu) ông diễn ra không dễ dàng vì tăng già thiếu kinh phí mua củi đốt.
    3- Việc ông ngộ Tam minh sau 49 ngày ngồi thiền: Túc mạng minh (thấy vô lượng kiếp trước) Thiên nhãn minh (thấy toàn thể vũ trụ) Lậu tận minh (vô nhiễm) ông người Đức nói theo kinh sách, không hiểu có đáng tin không, Hiện tạii người ta đã in ra bộ Tiền thân đức Phật dày hơn ngàn trang.tha hồ đọc hihihi..
    4- Riêng khổ đế trong Tứ diệu đế thì có thầy WAPOLA RAHULA (Tích Lan) bảo lâu nay ta hiểu sai đức Phật do dịch dukkha là khổ. Dukkha không hoàn toàn khổ...
    Nói đến ông Bu Đa thì bất tận ngôn, nhưngchúng ta cố gắng làm theo ông dạy, ăn ở hiền lành, trung thực, đức độ, là được rồi...Chứ không thẻ theo ông vào Niết Bàn được, vì ở đó buồn tẻ không như kiếp người ta đang sống...

    Trả lờiXóa
  20. @bulukhin, riêng về mục không theo Đức Phật vào Thiên đàng thì hoàn toàn nhất trí với bác Bu, chắc chắn nơi đó vui và nhiều bạn bè hơn :-)))

    Trả lờiXóa
  21. @bulukhin, quên nơi địa ngục chứ, Niết bàn chẳng có mấy bạn bè đâu :-)

    Trả lờiXóa